Phân biệt gốm và sứ -p3
Một quan điểm khác cho rằng sứ không nhất thiết phải thấu quang, bởi
bản thân những sản phẩm được gọi là đồ Tống hoặc đồ kiểu không phải cái
nào cũng đạt tới tiêu chuẩn đó… Nguyễn Văn Y là một trong những người
theo quan điểm này. Theo ông, các sản phẩm gốm thời Lý, Trần thế kỉ X –
XIV đều được gọi là sứ
Thậm chí,
trong một số bài viết, ông còn đẩy niên đại của sứ xa hơn nữa. ông cho
rằng, ở Việt Nam, sứ ít ra cũng có từ thế kỉ 8, 9 dưới dạng “sành sứ”:
“Nếu định nghĩa sứ là loại sành trắng mà xương đất có chất cao lanh, mặc
dầu có thể do lửa, hoặc do xương đất quá dày… mà chưa xuyên sáng thì đồ
sứ Việt Nam đã xuất hiện từ thời Lý và trước thời Lý. Nhiều hiện vật
bằng sứ xanh, sứ trắng ngà vẫn còn đến ngày nay có niên đại được qui vào
khoảng thế kỉ VII – IX. Đặc biệt, gạch tháp bằng sứ trắng, tượng nhỏ và
tượng bệ hình hoa sen cũng bằng sứ trắng rất thịnh hành dưới thời Lý.
Đại Việt sử kí toàn thư chép: “Năm ất Dậu, Lý Nhân Tông dựng hai tháp sứ
trắng ở chùa Diên Hựu”. (Nguyễn Văn Y 1978, tr.270). ông cũng đã giải
thích khái niệm xuyên sáng như sau: Sứ xuyên sáng là loại sứ mà xương
đất nung chín bị ánh sáng xuyên qua, khi ta đưa hiện vật lên ánh sáng mà
nhìn. Người Trung Hoa dùng chữ “thấu minh”, còn người Pháp dùng chữ
“translucide” (Nguyễn Văn Y 1978, tr.270). Theo suy nghĩ của tôi, thấu
quang (hay thấu minh, xuyên sáng) có lẽ là một tiêu chí của kĩ thuật chứ
không phải là tiêu chí của thẩm mĩ. Mặc dù, gốm có thấu quang hay
không, cũng không phải hoàn toàn do kĩ thuật mà có thể còn do dụng ý của
người chế tác.
Ấm chén Bát Tràng
Trong công trình Làng gốm Phù Lãng (Trương Minh Hằng 1998), chúng tôi đã ủng hộ quan điểm cho rằng đã là sứ phải đạt tiêu chuẩn thấu quang hoặc ít ra cũng là “bán thấu quang”. Với nghĩa đó, đồ gốm thời Lý, Trần chưa thể gọi là sứ. Nhưng cho tới thời điểm hiện nay, dưới ánh sáng của những tư liệu khảo cổ học mới được phát hiện, tuổi của sứ đã được giới nghiên cứu nhìn nhận lại và nhận thức của tác giả bài viết cũng có dịp được bổ sung. Cuộc điều tra khảo sát di chỉ Hoàng thành Thăng Long khởi công vào cuối năm 2002 và những kết quả khảo cổ được công bố vào thời gian gần đây nhất đã cho thấy: rất nhiều hiện vật gốm trắng thời Lý đã đạt tới tiêu chuẩn của sứ, đặc biệt là độ thấu quang. Để chứng minh cho điều này, có thể xem thêm bài và ảnh minh hoạ của Bùi Minh Trí đăng trong tạp chí Xưa và Nay (Bùi Minh Trí 2004, tr.32-39). Theo Mộ Thanh, sứ có 4 tiêu chuẩn cơ bản, đó là: trong như gương, trắng như ngọc, mỏng như giấy, kêu như chuông (Mộ Thanh, tr.225).
Trước khi kết thúc mục “đàm đạo” về những thuật ngữ của “họ nhà gốm”, chúng tôi xin dành đôi dòng cho loại gốm mở đầu cho “chi tộc nhà sành”: gốm sành nâu. Có ý kiến cho rằng, chỉ nên dùng thuật ngữ gốm sành vì thuật ngữ gốm sành nâu chưa được quốc tế hoá; nói cách khác, không thể dịch thuật ngữ này ra tiếng nước ngoài vì nó chưa có thuật ngữ quốc tế tương đương. Trên thực tế, hầu như tất cả những khái niệm, những thuật ngữ tôi đã đề cập ở trên đều đã được “chuẩn hoá” qua các cuốn từ điển tiếng Anh, từ điển tiếng Pháp, từ điển thuật ngữ mĩ thuật, hoặc qua các công trình dịch thuật. Có thể lấy ví dụ:
- Gốm, Đồ gốm: Porttery / Ceramic / Ceramicque.
- Đất nung: Terra cotta / Terre cuite
- Đất nung tráng men: Terre cuite émaillé
- Sành: Stoneware, (Stone ware) / Earthen ware
- Sành trắng: Grés
- Sứ: Porcelain / Chine
Ngoài ra còn có thuật ngữ “sành xốp”, còn gọi là đồ đàn, được dịch là Majolique hoặc Faience theo tên 2 địa danh ở vùng Tiểu á và ý chuyên sản xuất mặt hàng này (Nguyễn Văn Y 1976, tr.225). Quả thật, trong các công trình khoa học nghiên cứu về gốm Việt Nam của các học giả nước ngoài mà tôi được biết, chưa khi nào thấy xuất hiện thuật ngữ sành nâu. Một điều có thể coi là “éo le” là cũng chưa có một công trình nào của họ dành một chuyên mục riêng cho loại gốm này. Mà không chỉ riêng các học giả nước ngoài, các nhà nghiên cứu trong nước cũng vậy. Trịnh Cao Tưởng đã tỏ ra rất “bất bình” về việc này: “Các học giả trong và ngoài nước đổ xô vào nghiên cứu gốm men – cũng dễ hiểu thôi, bởi vẻ đẹp và sự phong phú của nó, còn sành và đất nung hầu như chưa thấy có một công trình nào dành riêng cho chúng…” (Trịnh Cao Tưởng 2003, tr.102). Trong công trình nghiên cứu của các học giả trong nước, thuật ngữ này xuất hiện nhiều nhất trong các bài viết của hai tác giả Nguyễn Văn Y và Trần Khánh Chương – đây là hai nhà nghiên cứu mỹ thuật đã dành nhiều công sức và tâm huyết cho bộ môn “gốm học”. Theo tôi, có lẽ, Nguyễn Văn Y là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này trong những nghiên cứu công bố từ thập kỉ 70 của thế kỉ trước. Còn Trần Khánh Chương, trong cuốn Nghệ thuật gốm Việt Nam (Trần Khánh Chương 1990) đã dành hẳn một mục lớn có tiêu đề là “Gốm sành nâu”, và trong một công trình xuất bản muộn hơn: Gốm Việt Nam (Trần Khánh Chương 2001) đã dịch thuật ngữ gốm sành nâu sang tiếng Anh là: Brown earthenware. Chúng tôi cũng biết, dịch các thuật ngữ chuyên ngành là một vấn đề khó, ngay cả đối với một số thuật ngữ mang tính phổ cập. Ví dụ, trong một số tư liệu, thuật ngữ Earthen ware khi thì được dịch sang Việt văn là “sành xốp” (để phân biệt với thuật ngữ Stone ware thường được dịch là “sành” như cách phân loại trong cuốn Ceramic Art in Thailand đã nói tới ở trên), khi thì được dịch là đất nung (ví dụ trong cuốn Gốm hoa lam Việt Nam, Bùi Minh Trí, Kerry-Nguyen Long 2001). Cũng như vậy, thuật ngữ gốm hoa lam – một dòng gốm nổi tiếng được sản xuất ở rất nhiều nơi trên thế giới có một thuật ngữ quốc tế tương đương là Blue and White Ceramics, nhưng trong cuốn Gốm Việt Nam, Trần Khánh Chương dịch Gốm hoa lam = Blue pattern glaze; cũng như vậy, Gốm hoa nâu = Brown pattern glaze (Trần Khánh Chương 2001). Có ý kiến cho rằng, cách dịch của Trần Khánh Chương chuẩn xác hơn. Nhưng ý kiến khác lại cho rằng, dịch như vậy, các học giả nước ngoài sẽ tưởng Blue and White và Blue pattern glaze là 2 dòng gốm khác nhau. Tóm lại, dịch cũng là một cách thể hiện quan điểm học thuật. Với kiến thức hạn hẹp của mình, chúng tôi thể chưa xác định được cách dịch thuật ngữ Gốm sành nâu = Brown earthenwar (của Trần Khánh Chương) đã được coi là “chuẩn hoá” chưa.
Đối với các nhà khảo cổ, thuật ngữ “gốm sành nâu” cũng được sử dụng nhưng với một cách thức có vẻ rụt rè hơn. Ví dụ, chúng tôi thấy chúng xuất hiện trong những nghiên cứu của các tác giả Trần Anh Dũng, Trần Đình Luyện, Tăng Bá Hoành, Nguyễn Duy Cương, v.v… Trong khi đó, cũng có trường hợp như nhà khảo cổ học Trịnh Cao Tưỏng, mặc dù đã dành nhiều tâm huyết cho loại hình này như trong các bài: Hướng tới việc định niên đại cho loại gốm sành (Trịnh Cao Tưởng, 2003); Ghi chép khảo cổ học tại Phù Lãng, làng gốm sành cuối cùng của đồng bằng Bắc Bộ (Trịnh Cao Tưởng 2004), cũng chỉ gọi chính những sản phẩm sành nâu của các làng Thổ Hà và Phù Lãng bằng một “danh từ chung”: gốm sành.
Trong các làng sành nâu vùng đồng bằng sông Hồng, có lẽ duy nhất chỉ có Phù Lãng sản xuất sành nâu có men. Chính vì vậy, ở đây lại nảy sinh hai quan điểm khác nhau khi phân loại những sản phẩm gốm Phù Lãng. Một quan điểm cho rằng, gốm Phù Lãng phải “xếp” vào “hệ” gốm men (ví dụ cách đặt tên một bài viết của Vũ Văn Bát: “Nhóm lư hương gốm men Phù Lãng”, Thông báo lịch sử năm 1986, Viện Bảo tàng lịch sử). Quan điểm thứ hai cho rằng, gốm Phù Lãng thuộc loại gốm sành. Những người ủng hộ quan điểm này gồm đa số các nhà nghiên cứu mĩ thuật và một số ít các nhà khảo cổ (ví dụ Trịnh Cao Tưởng, Trần Anh Dũng, Trần Đình Luyện… với những bài đã dẫn). Chúng tôi đứng về phía quan điểm thứ hai.
Theo Nguyễn Văn Y, gốm sành nâu còn được gọi là “đồ cang”, như những sản phẩm của các lò Hương Canh (Vĩnh Phúc), lò Ngoạ Cương (Quảng Bình). ông viết: “Từ cang có lẽ cũng xuất xứ từ một địa danh làm đồ sành nâu, mà hiện nay chưa hiểu rõ nơi nào” (Nguyễn Văn Y 1976, tr.225). Cách gọi sản phẩm theo địa danh sản xuất như trên giống như cách gọi tên loại gốm sành xốp: người châu Âu gọi là Faience (Faienca là tên một địa danh ở ý nổi tiếng về sản phẩm này), còn người Việt gọi theo lối dân gian là đàn (Đàn là tên một làng làm sành xốp xưa kia ở tỉnh Hải Dương). Trong những thuật ngữ của nghề gốm, cang là một từ “tối cổ”. Xuất phát từ những tư liệu điền dã tại các làng gốm, chúng tôi cho rằng: chắc chắn từ cang có mối liên quan nào đó với từ sành nâu. Ví dụ, hiện tại, nghề làm gốm sành nâu ở Hương Canh đã mất, nhưng ở làng vẫn còn một xóm nhỏ có tên gọi là “Lò Cang”. Còn ở các làng sành nâu vùng Kinh Bắc, chỉ còn Thổ Hà là sử dụng từ này nhưng theo một ý nghĩa khác; và cũng chỉ thấy nó còn xuất hiện trong các văn bản cổ của địa phương. Ví dụ, văn bia đình Thổ Hà ghi: “Làng có nghề cang gốm rất phát đạt…”.
Như vậy, nếu như người nước ngoài chưa hề sản xuất loại gốm này và nó chưa có thuật ngữ quốc tế tương đương thì không có nghĩa là chúng ta không thể định danh cho một loại hình nghệ thuật-sản phẩm đã được định hình từ rất lâu trong lịch sử và đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá người Việt. Trong khi chờ đợi để được “chuẩn hoá”, cho tới thời điểm này, chúng ta vẫn có thể coi gốm sành nâu là một thụât ngữ riêng trong “danh mục từ loại” của nghệ thuật gốm Việt Nam. Để định vị chỗ đứng của sành nâu trên bức tranh chung của gốm Việt Nam, có thể phác lược một sơ đồ như sau:
Nhìn lên sơ đồ có thể thấy “đáp án” cuối cùng của “bài toán gốm” vẫn bao gồm 3 loại gốm chính, xếp theo thứ tự niên đại là: đất nung, sành, sứ.
Trên đây chúng tôi đã trình bày những quan niệm, những cách gọi xung quanh các thuật ngữ của nghề gốm (gốm, đất nung, sành, sứ…), những tiêu chí về việc phân loại đồ gốm, và đôi chỗ đưa ra ý kiến của mình thông qua việc ủng hộ quan điểm này hay quan điểm khác. So với nhiều loại hình nghệ thuật và nhiều loại hình sản phẩm đã từng tồn tại, gốm/đồ gốm có một niên đại sớm (thậm chí rất sớm) với một chặng đường phát triển khá dài và hầu như không bị đứt đoạn. Mỗi một giai đoạn trong lịch sử, chúng đều có một dấu ấn riêng và có thể định vị một tên gọi riêng. Sự phong phú, đa dạng các loại hình trong lịch trình phát triển chính là nguyên nhân (và là điều không thể tránh khỏi) dẫn đến sự “chưa thể thống nhất” những thuật ngữ xung quanh “họ nhà gốm”. Trong khi trình bày, người viết cố gắng lược thuật những ý kiến, những quan điểm của các học giả với mục đích dàn cảnh “phả hệ” gốm trên một mặt bằng tổng quan để người đọc có thể hình dung chỗ đứng/vị trí của gốm sành nâu trên bức tranh chung của nghệ thuật gốm Việt Nam. Việc hệ thống và chuẩn hoá các khái niệm, các thuật ngữ cũng như các tiêu chí phân loại gốm để thuận tiện cho nghiên cứu, khảo sát là việc làm cần thiết nhưng không đơn giản. Tảc giả bài viết không có tham vọng giải quyết một cách triệt để những vấn đề đã được nêu ở trên. Vả lại, nếu có giải quyết thì cũng chưa chắc đã mang lại hiệu quả thiết thực; bởi vì, theo suy nghĩ của tác giả, một khi những khái niệm về gốm, sành, sứ vẫn còn “mập mờ” thì vấn đề thương mại gốm mới trở nên phong phú và hấp dẫn.
0 nhận xét
Mời bạn cho ý kiến