­

Phân biệt gốm và sứ -p2

By 08:59

Trong những công trình nghiên cứu về gốm, đặc biệt là những bài viết của các nhà khảo cổ, gốm men được dùng như một danh từ chung, còn khái niệm men ẩn dấu trong các thuật ngữ gốm hoa lam, gốm hoa nâu, gốm men ngọc … được gọi là các dòng gốm hoặc các dòng men.

Vì khái niệm dòng gốm/dòng men (dùng để chỉ các loại men gốm) không phản ánh thành phần và tính chất của xương gốm nên đôi khi, trong một số “bối cảnh”, để cụ thể hơn, người ta lại phải dùng một thuật ngữ khác thay thế. Ví dụ, gốm hoa nâu còn được gọi là “gốm sành xốp hoa nâu”, hoặc “gốm đàn hoa nâu”, với nghĩa xương của nó là loại sành xốp (đàn). Cũng như vậy, gốm hoa lam còn được gọi là “gốm sành trắng hoa lam”, hoặc “gốm sành sứ hoa lam”; gốm Biên Hoà còn được gọi là “gốm sành xốp Biên Hoà” v.v… Thực tế, từ trước tới nay, chưa ai đặt ra vấn đề lấy men làm tiêu chí phân loại gốm, vì “chi lưu” của các dòng men diễn tiến quá phức tạp. Lấy ví dụ, ngoài các dòng men khá nổi tiếng đã được “điểm danh” ở trên như gốm men ngọc, gốm hoa nâu, gốm hoa lam, còn có: gốm men trắng, gốm men nâu, gốm men nâu đen, gốm men đen, gốm “thanh bạch”, gốm men lam, gốm men lam xám, gốm tam sắc, gốm men vàng, gốm men xanh lục, gốm men xanh đồng, gốm men rạn, gốm ngoài men nâu đen trong men trắng, gốm men nhiều màu, v.v… (về thuật ngữ “gốm men nhiều màu”, xem thêm: Phạm Quốc Quân, Hà Văn Cẩn 1994, tr.310, 311).

Gốm Biên Hòa

Trong một nghiên cứu công bố từ năm 1976, Nguyễn Văn Y – một trong những người đầu tiên có ý định phân tách đồ gốm thành những loại hình riêng biệt để thuận tiện cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, đã chia “họ nhà gốm” thành 3 loại chính: 1. Đất nung, 2. Sành, 3. Sứ (Nguyễn Văn Y 1976, tr.223). Chúng tôi rất ủng hộ cách phân loại này. Đây là cách phân loại trên cơ sở lấy chất liệu và độ nung của xương đất làm tiêu chí. Chất liệu và độ nung của 3 loại này tương đối rạch ròi. Ví dụ: gốm đất nung được làm từ đất sét thường (đất thó), nhiệt độ trung bình khoảng 600 – 7000C, cao nhất là 9000C; gốm sành có thể được làm từ đất sét thường (để cho loại sành nâu) hoặc từ đất sét trắng (cho loại sành trắng hoặc sành xốp), nhiệt độ trung bình đạt từ 1000 – 11000C, thậm chí 12500C tuỳ theo cấu tạo của lò nung và thành phần của xương đất chịu được lửa cao hay thấp. Còn sứ, trong thành phần nguyên liệu ngoài đất sét trắng phải có thêm cao lanh, thạch anh, tràng(trường) thạch (và một số hợp chất khác). Nhiệt độ lò sứ thường đạt từ 1280 –13500C, thậm chí 14000C. Riêng “chi tộc” của đồ sành tương đối phức tạp nên có thể phân chia cụ thể hơn. Sành được chia thành 2 dạng: sành cứng (còn gọi là sành mịn) và sành mềm (còn gọi là sành xốp hay là “đồ đàn” theo cách gọi dân gian). Gọi là sành cứng hay sành mịn là do xương đất khi nung ở nhiệt độ cao đã bắt đầu nóng chảy (thiêu kết), tạo kết dính hạt mịn và rắn chắc như đá, không còn bị ngấm nước (có lẽ vì vậy mà người Nhật và người Trung Hoa gọi chúng là thạch khí). Còn sành xốp, còn có tên là “đàn”, do xương đất mới kết dính nhưng chưa thật chín nên “bở”, “xốp” và vẫn bị ngấm nước. Nguyễn Văn Y đã giải thích khái niệm “đàn” trong một số nghiên cứu đã công bố (Nguyễn Văn Y 1971, tr. 174). Còn tiến sĩ Bùi Minh Trí cho rằng, đàn hay sành xốp là một khái niệm rất “mơ hồ”. Điều này theo tôi, có thể do độ cứng và thành phần của xương gốm sành xốp không ổn định. Loại sành cứng còn có thể chia thành sành nâu (do xương gốm làm từ loại đất sét thường) và sành trắng (do xương gốm làm từ loại đất sét trắng). Theo những tư liệu mà chúng tôi hiện biết, về hai loại gốm xuất hiện sớm là gốm đất nung (niên đại khoảng gần 1 vạn năm) và sành (cụ thể hơn là sành nâu – niên đại khoảng gần 2 ngàn năm), cách phân biệt giữa chúng tương đối rành mạch (cũng có thể do chúng là những loại gốm có thành phần và công nghệ chế tác tương đối đơn giản). Nhưng khi sành trắng và sau đó là sứ ra đời thì vấn đề trở nên phức tạp.

Thực tế cho thấy, giữa sành trắng và sứ không chênh lệch nhau nhiều về độ lửa (trong lò nung) mà khác nhau chủ yếu về độ trong. Mặc dù cùng được làm từ nguyên liệu đất sét trắng (là chủ yếu), nhưng sành trắng và sứ khác nhau ở chỗ xương đất sứ đã hoàn toàn kết tinh, soi lên ánh sáng thấy dấu tay cầm (thấu quang). Tuy nhiên phải có cao lanh, tràng thạch và nung ở nhiệt độ trên 13000C mới thành sứ thấu quang được, nung chưa đến độ lửa vẫn còn là sành; hoặc sành nung ngang độ lửa của sứ vẫn chỉ là sành do thành phần xương không có cao lanh, tràng thạch. Có lẽ do những yêu cầu của công nghệ chế tác sứ quá cao nên thực tế đã nảy sinh ra một dạng sản phẩm “nằm dở dương” giữa sành và sứ; thành phần nguyên liệu và độ nung đạt tiêu chuẩn của sứ nhưng chưa thấu quang. Nguyễn Văn Y gọi chúng là loại “bán sành bán sứ”. ông viết: “Những đồ sứ cổ của ta và cả của Trung Quốc thường thuộc loại này, được gọi là sứ nhưng chưa thấu quang” (Nguyễn Văn Y 1971 tr.174, 225). Còn đa số các nhà khảo cổ học nước ta gọi chúng là “sành sứ” hoặc “gốm sứ” (với nghĩa “demi” sứ). Chính vì giữa sành trắng và sứ có thể lẫn lộn nên ỏ Trung Quốc, một số cuốn từ điển đã giải thích sành (sành trắng – TMH) là “sứ thô” (Nguyễn Văn Y 1976, tr.224).

Đến đây có thể trở lại một vấn đề đã được đặt ra ở trên là vấn đề niên đại của sứ. Sự ra đời của sứ Việt Nam liên quan mật thiết và chịu ảnh hưởng rõ sự phát triển của nghệ thuật gốm Trung Quốc. Có thể nói, Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới “phát minh” ra sứ. Theo một số công trình nghiên cứu, khảo sát đã công bố thì sứ Trung Quốc có từ đời Tam Quốc với những hiện vật bằng sứ xanh. Nhưng một số học giả Trung Quốc lại cho rằng sứ Trung Quốc có từ đời ân Thương, mặc dù khi đó sứ chưa thể “thấu minh” do trình độ nung và độ lửa còn thấp (Nguyễn Văn Y, 1976, tr.224). Việc giải thích ý nghĩa và nguồn gốc của chữ sứ cũng có nhiều cách khác nhau. Vương Hồng Sển – một trong những nhà sưu tầm cổ vật nổi tiếng ở Sài Gòn xưa đã giải thích chữ sứ trong một số sách Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa; Khảo về đồ sứ men lam Huế; Thú chơi cổ ngoạn… như sau: “Gọi là đồ sứ vì đồ này do triều đình nhà Nguyễn phái sứ bộ sang Trung Quốc đặt làm, và đồ này được sứ đoàn mang về nên gọi là đồ sứ…” (Nguyễn Anh Huy 1994, tr.315). Sau này, một số bài viết của tác giả Trần Đức Anh Sơn cũng đưa ra cách giải thích tương tự, như trong báo Thừa Thiên – Huế số 470, ra ngày 23/8/1994, tr.5, tác giả viết: “Sứ là chất liệu cao cấp hơn sành và gốm, hay sứ là sứ bộ, sứ đoàn, sứ giả? Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh chỉ có một chữ sứ và chú giải: người vâng mệnh đi làm một việc gì – tên quan ngoại giao ra trú ở nước ngoài… ”. Và tác giả khẳng định: “Như vậy không có chữ sứ nghĩa là đồ vật nung từ đất”. (Nguyễn Anh Huy 1994, tr.316). Cách giải thích của hai tác giả trên có vẻ khiên cưỡng, bởi vì, cứ cho rằng, mãi cho đến khi nhà Nguyễn phái sứ bộ sang Trung Quốc đặt làm (kí kiểu) thì Việt Nam mới có đồ sứ, còn trước đó, những đồ mà người Châu âu gọi là Porcelains mua từ Trung Quốc sang thì người Trung Quốc gọi là gì? Theo tôi, cách lí giải của Nguyễn Anh Huy, trong bài “Phát hiện mới về ý nghĩa chữ sứ trong thuật ngữ đồ sứ men lam Huế và cách gọi đồ sành sứ nói chung” là hợp lí hơn cả: Chữ sứ xuất phát từ người Trung Quốc, họ gọi những đồ vật này là “từ khí” (theo âm Hán Việt). Chữ từ phiên âm của người Trung Hoa là /cí/, phát âm giống như như âm giống như âm đọc chữ “sứ” của người Việt. Còn chữ sứ (sứ giả), phiên âm của người Hoa là /shi/ và phát âm cũng giống như chữ “sứ” của Việt Nam. Như vậy, chữ từ (trong từ khí) và chữ sứ (trong sứ giả, đại sứ) của người Trung Quốc phát âm nghe như nhau. Nguyễn Anh Huy cho rằng, có lẽ đây là một dạng đồng âm dị nghĩa nên mới dẫn đến cách hiểu nhầm lẫn của hai tác giả trên. (Nguyễn Anh Huy 1994, tr.315).

Theo tư liệu của Nguyễn Văn Y, người châu âu lần đầu tiên biết tới đồ sứ do việc nhập khẩu sứ Trung Quốc. Họ đặt tên cho nó là porcelaine với nghĩa nguyên thuỷ là “xà cừ” (tên cúng cơm của con trai biển) nhằm dụng ý ca tụng sự trong suốt, óng ánh của nó. Và cho tới nay, một số từ điển tiếng Anh vẫn giải thích thuật ngữ Đồ sứ với hai nghĩa: 1. Porcelaines; 2. Chines. Theo cách đặt tên của người châu âu, một trong những đặc tính của sứ là phải “thấu minh” chứ không chỉ vì trong xương đất có chất cao lanh là đủ (Nguyễn Văn Y 1976, tr.225).

Như vậy vấn đề cần tranh luận ở đây là, “sứ” chưa thấu quang có gọi là sứ không?

Ở Việt Nam, trong số những nhà viết sử mỹ thuật, Nguyễn Phi Hoanh là người đầu tiên đưa ra ý kiến của mình qua việc “định danh” các tiểu mục trong cuốn Lược sử mĩ thuật Việt Nam: “Đồ sành Bát Tràng” (tr.114), “Đồ sứ Huế” (tr.128). ông viết: “Nước Việt Nam trong bao nhiêu thời đại đã biết làm đồ gốm, nhưng chưa khi nào sản xuất đồ sứ mịn. Những lọ và bát đĩa đẹp trong các thời đại trước đã xác nhận là của Việt Nam cũng chỉ là loại sành tốt mà thôi”. Theo ông, đồ sứ mới xuất hiện ở Việt Nam vào thời Nguyễn, đó là những đồ “kí kiểu” được triều đình Huế đặt làm tại lò Cảnh Đức Trấn bên Trung Quốc (được gọi bằng nhiều tên: đồ sứ Huế, đồ gốm men lam Huế, đồ kiểu v.v…)
Trần Khánh Chương cũng có quan điểm tương tự: “Đồ sứ là loại gốm nung ở nhiệt độ cao, xương đất chảy, trắng, bóng, có thể từ phía trong nhìn thấy hình vẽ, hoạ tiết ở mặt ngoài. Ngày xưa, người ta thường nhắc tới sứ Giang Tây, loại sứ mang dấu ấn Nội phủ mà triều đình Nguyễn đặt mua ở Trung Quốc, hoặc loại sứ mỏng có hình cô tiên của Nhật Bản… Không ai nói đến đồ sứ của Việt Nam. Nước ta chỉ có đồ đất nung, đồ đàn, đồ sành trắng cao hơn nữa thì cũng chỉ có loại “bán sành bán sứ” (Trần Khánh Chương 1990, tr.101). ông cho rằng niên đại của sứ Việt Nam được đánh dấu vào thời điểm ra đời của nhà máy sứ Hải Dương, năm 1960.

You Might Also Like

0 nhận xét

Mời bạn cho ý kiến